Thầy Đồ Thầy Tà – Chap 3

Thầy Đồ Thầy Tà.

Tác Giả: Huyết Bán Nguyệt.

Chap 3:

Đang ngủ, Thầy Minh giật mình tỉnh giấc, từ ngón chân đến đỉnh đầu đều cảm thấy lạnh run hết cả người, giống như có một cơn gió lạnh vừa thổi qua nơi này vậy. Trong giấc mơ vừa rồi, Thầy không khỏi bàng hoàng khi cha nuôi hiện về báo mộng cho mình, nhớ lại những gì cha nuôi đã nói, Thầy vội vàng leo xuống giường muốn đi ra thăm dò thử, bàn tay đẩy nhẹ cánh cửa rồi bước ra. Bên ngoài một cơn gió lạnh nhè nhẹ thổi qua làm Thầy thoáng rùng mình, đưa mắt nhìn xung quanh, mọi thứ vẫn yên tĩnh như thường ngày, bầu trời hôm nay tối mịt, Thầy trầm tư mà suy nghĩ:

— Lạ nhỉ, giấc mơ ban nãy có phải thật không. Nhưng mà đích thân cha nuôi hiện về báo mộng, thì làm sao mà không tin cho được.

Thầy vươn tay chạm vào cánh cửa, bất chợt chạm vào thứ gì đó rồi vội rụt tay lại, Thầy Minh nghiêng đầu xoay người sang muốn nhìn cho kĩ thì không ngờ trên cánh cửa là những vết trầy xước xen kẽ nhau chi chít, đưa tay sờ qua sờ lại một lúc thì ông chắc chắn đây là vết đao kiếm chém vào. Trên đầu ngón tay thoáng xuất hiện cảm giác lành lạnh chạy dọc vào.

Thầy đè hai ngón tay lại cảm nhận, tự hỏi:

— Âm khí sao….

Vội vàng đóng cửa chặt lại, Thầy đi vào trong, đứng trước bàn thờ thắp mấy nén hương rồi lầm bầm mà khấn vái:

— Nhị vị cha nuôi, ơn cứu mạng vừa rồi của hai cha con không biết làm sao để báo đáp, cả đời này của con từ nhỏ cho tới lớn đều được hai cha chở che phù hộ. Nay con lại gặp chuyện dữ, kính xin hai cha phù hộ cho con được yên ổn.

Ba nén hương vừa găm xuống thì lập tức cháy đỏ, trong phút chốc đã cháy hết một nửa. Thầy Minh đưa tay bấm bấm độn thì thở dài đi tới bàn trà, thắp sáng cây đèn dầu, rồi lại lấy ra một mảnh giấy, nghiền mực mà ghi chép gì đó, sau một hồi thì gấp lại đem đặt nó dưới gối. Thầy quay lại bàn, rót một tách trà rồi ngồi trầm tư mà suy nghĩ về hai vị cha nuôi của mình. Hai người này lai lịch không rõ, Thầy chỉ nghe kể lại rằng. Năm đó khi Thầy vừa lên 3 tuổi thì bị một trận bạo bệnh phải nằm sốt mê man mấy ngày liền, vào một đêm thì Thầy sốt cao, toàn thân bắt đầu có hiện tượng co giật, lúc ấy Thân Phụ của Thầy thì đang đi xem phong thuỷ cho một nhà ở tận làng bên, chỉ có Thân Mẫu của Thầy ở nhà, khi Thầy có dấu hiệu co giật, Thân Mẫu vội ôm con vào lòng chạy ráo riết đi tìm thầy lang để xin cứu giúp, bà bế Thầy đi kêu cửa người này người kia nhưng tuyệt nhiên không một ai ra mở cửa, người ta chỉ lạnh lùng đáp lại:

— Sáng mai hãy đến. Giờ này nửa đêm, không có trị bệnh thuốc men gì cả.

Bà ôm con vừa chạy vừa khóc, nước mắt giàn dụa. Thầy thì co giật liên hồi, hai mắt trợn trắng, tưởng chừng như không qua khỏi. Kiếm thầy lang không được, hết cách bà ôm chặt con vào lòng mà chạy thẳng về nhà, đặt con xuống mà gấp gáp tìm vội một cái khăn rồi nhúng vào nước ấm, lau hết mồ hôi trong mình cho Thầy. Lúc này bà đã hoảng lắm rồi, nghĩ cái gì thì làm cái đó. Đang lau thì bà cảm giác có một luồng hơi lạnh từ đâu chạy dọc sống lưng làm Bà rùng mình lên mấy cái, bỗng có hai bóng đen to lớn lù lù xuất hiện trước mặt. Bà Thân nhìn lên thì há hốc mồm, cả người như chết điếng cứng đơ, hai bóng đen này một kẻ thì không có đầu, một kẻ thì không có mắt, hốc mắt sâu hoáy đen ngòm. Bà kinh hãi muốn hét lên nhưng cổ họng cứ nghẹn lại, mắt cứ mở trân trân mà nhìn thẳng vào hai hốc mắt của người kia. Hai bóng đen hành động kì quái, người không đầu thì đưa tay bế thầy lên cao, người không mắt lại xoay xoay hai bàn tay mà vuốt vuốt cả người của thầy. Sau một lúc, như được thầy lang cứu chữa thì đột nhiên Thầy hết co giật, cơn sốt cũng hạ dần. Người không mắt cảm nhận được cũng dừng lại mà gật đầu, rồi đưa tay ra bế thầy nhẹ nhàng vỗ vỗ một lúc thì Thầy lại ngủ ngon lành, thấy Thầy đã ngủ, người này mới đặt thầy xuống phản, quay sang thì thấy bà Thân Mẫu đã ngất xỉu từ lúc nào, hai người biến mất, người không quay lưng lại phía bà Thân Mẫu mà lên tiếng:

—- Chị hai, chị hai, dậy đi…. Chị hai….

Nghe thấy giọng ai đó, bà Thân giật mình tỉnh dậy, hoảng hốt co đùi lại quỳ xuống, hai bàn tay chắp lại đưa lên mà lạy lên lạy xuống:

— Tha cho tôi, tha cho tôi…. Huhu con có lỡ làm gì đắc tội với ngài xin ngài tha cho con, con còn con nhỏ nữa thầy ơi… huhu.

Người không mắt lúc này mới đáp:

— Bà chị, bà không làm gì sai và chúng tôi không có hại gì bà chị cả. Thấy thẳng nhỏ sắp chết thì anh em tôi cứu mạng. Coi như tích chút âm đức.

Lúc này bà Thân mới nhớ đến Thầy, vội quay ngang quay dọc tìm, bất ngờ thấy Thầy đang nằm ngủ ngon lành, bà Thân ngớ ra rồi lại vội vàng quỳ lạy đưa tay mà cảm tạ:

—- Con cảm tạ ông đã cứu con của con, ơn này nghĩa này làm sao mà con đền đáp cho được. Ông có đói khát gì hay muốn lễ lộc gì sáng mai con đi chợ tôi mua đồ rồi con trả lễ cho ông.

Người không mắt lại nói:

— Không cần đâu chị Hai. Vốn dĩ tôi với anh họ Lê kia ở cái đất này lâu lắm rồi, dưới đất này là phần mộ của chúng tôi, năm nay thì anh chị tới đây dựng nhà. Thôi thì người âm phải nhường đất cho người dương. Anh em tôi không phá phách gì anh chị hết. Nay thấy đứa bé này hợp mạng, có duyên nên chúng tôi giúp. Không cần lễ lộc gì cả.

Bà Thân Mẫu nghe qua thì biết người này với người không đầu lúc nãy là hai hồn ma chết ở đây lâu lắm rồi, bà lại lên tiếng hỏi:

— Hai ông chết lâu chưa, sao không đi đầu thai mà còn ở mãi nơi này, rồi cớ sao mà một người thì không đầu, còn một người thì không mắt?

Người kia mới trả lời:

— Vốn anh em tôi ngày xưa là quân lính, khi đến nơi này thám thính thì không may bị địch nó bắt. Anh họ Lê thì bị chúng chặt đầu, còn tôi thì bị chúng móc mắt rồi chôn sống. Vốn dĩ chúng tôi không đầu thai được là do không đủ tứ chi bộ phận, mà có muốn đủ tứ chi bộ phận thì phải kéo người khác chết theo để mà lấy của người ta. Nhưng là người chung một xứ, chúng tôi không đành làm như vậy, làm như vậy thì khác gì tự mình giết dân mình. Thôi cháu nó không sao là tốt rồi, tôi ở lại đây lâu thì e rằng sẽ ảnh hưởng tới dương khí của chị.

Nói rồi người không mắt từ từ mà biến mất, lúc này Bà Thân lại giật mình một lần nữa, hoá ra cuộc nói chuyện vừa rồi chỉ là trong giấc mơ, bà lại giật mình nhớ ra con mình vẫn còn đang sốt cao, trên tay bà vẫn còn cầm cái khăn ấm, quay sang tìm con thì thấy con trai đang nằm ngủ ngon lành, vội bế con lên mà ôm chặt vào lòng, hai hàng nước mắt chảy dài trên má, bà chắp hai tay bái lạy xung quanh căn nhà như muốn nói lời cảm tai đến hai người vừa rồi. Cho đến sáng hôm sau khi Thân Phụ của thầy dẫn theo người con trai lớn về thì Thân Mẫu kể lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm qua, Thân Phụ thầy chỉ nói vài lời đơn sơ rồi sai con trai lớn tên Thiện đi tìm cho ông một tấm gỗ lớn, ông Thân dùng tấm gỗ ấy lập nên cái bàn thờ để thờ hai người đã cứu con trai mình. Khuya đêm ấy, ông Thân chuẩn bị đầy đủ đồ lễ, sắp xếp lễ vật lên trên bàn thờ rồi khấn vái, thắp hương xong thì ông đi ra rót ba tách trà, đợi chờ một lúc thì hai người đêm qua lù lù xuất hiện, lúc này ông Thân mới đứng lên mà chắp tay hành lễ:

— Tôi là Thân Phụ của đứa trẻ đêm qua được hai vị cứu giúp. Nay muốn mời hai vị về đây để nói lời cảm tạ, xin hai vị ngồi vào bàn để tiện cho tôi thưa việc.

Hai người kia cũng chắp tay hành lễ lại với ông Thân rồi ngồi vào bàn, ông Thân mới lên tiếng:

— Trà tôi pha có hơi nhạt, mong các vị dùng tạm cho.

Hai vị kia lên tiếng:

— Anh Hai mời chúng tôi về đây có việc gì không.

Ông Thân lại bắt đầu hỏi lai lịch của hai người, sau một lúc thì biết được hai vị này rất đáng kính trọng. Ông Thân mới nói:

— Thôi thì nay tôi xin hai vị điều này, hai vị ở đất này đã lâu, nay ngôi gia tôi cũng vừa mới chuyển đến, ấy cũng là cái duyên, trước thì tôi không biết, nay đã biết có nhị vị thì xin cho tôi được lập cái bàn thờ nhỏ mà thờ cúng các vị cho phải lễ.

Người Không mắt đứng dậy chắp tay:

— Nếu mà được như vậy thì tốt qua, họ Nguyễn tôi với anh Họ Lê đây xin cảm tạ anh Hai rất nhiều.

Ông Thân cũng đứng lên xua tay:

— Ấy chết, không có gì đâu, hai vị đã cứu con tôi một mạng, thì việc này có nghĩa lý là gì. Tôi đây cũng chỉ là một thầy phong thuỷ nghèo, chỉ sợ các vị chê không muốn ở nơi này mà thôi.

Sau một lúc lời qua tiếng lại, hai vị Họ Nguyễn và Họ Lê cũng từ từ mà biến mất vào bàn thờ. Nhớ tới đây, Thầy lại rưng rưng nước mắt, Thầy lại nhớ về những lần sau này chết hụt mấy lần đều được hai vị cha nuôi này cứu mạng. Thầy lại nhớ về ông bà Thân của mình, rồi còn người anh Trai tên Thiện đang hành nghề thầy pháp ở làng khác cách chỗ Thầy ở hai ngày đi đường. Đang trầm tư suy nghĩ thì có tiếng gà gáy sáng, Thầy nhìn ra ngoài cửa thì thấy hừng đông đã bắt đầu ló dạng, thở dài ra một hơi rồi Thầy lại đi vào trong tranh thủ mà ngủ thêm một tí để lấy sức mà dạy học.

Anh Trung sau một đêm nằm trằn trọc trong lo sợ thì vội chạy ra xem những cái trụ lớn bị ngã lăn xuống đất, đứng thở dài mà khó hiểu:

— Haizzz, có chuyện gì đây chứ, trụ gỗ này mình đã chôn chân sâu lắm rồi kia mà, tại sao lại ngã lăn ra đất như vậy được, mà đêm qua cũng đâu có gió mạnh.

Như chợt nhớ ra điều gì, anh đi tới đi lui mà tìm thứ gì đó, sau một lúc thì đứng lại mà nói thầm:

— Lạ nhỉ, đêm qua rõ ràng là nghe tiếng rất nhiều người đi qua lại, còn nghe cả tiếng hô đồng loạt như đang kéo đẩy thứ gì đó, nhưng tại sao bây giờ lại không thấy dấu chân trên đất.

Đứng suy nghĩ hồi lâu, thấy có vài người thợ đã tới, một người thợ lớn tuổi nhất trong đó thấy những trụ gỗ hôm qua dựng lên nay đã đổ hết, vội đi đến mà hỏi chuyện anh Trung:

— Sao vậy Trung, có chuyện gì mà mấy cái trụ lại đổ ra đất thế hả cháu.

Trung chậc lưỡi rồi kể lại cớ sự đêm qua cho người này nghe, sau khi nghe xong thì ông ta vỗ tay cái *bốp* rồi mới nói:

— Mẹ nó, có khi nào là do âm binh nó phá không cháu.

Anh Trung nheo mắt nhìn người này:

— Bác nói gì cháu không hiểu lắm.

Ông Bác kia mới lên tiếng:

—- Thì là âm binh nó phá nhà đó cháu, cái chuyện này bác đã từng gặp rồi. Chắc là do cháu đắc tội với ai nên bị người ta gọi âm binh về phá cháu đấy.

Anh Trung nghe vậy thì có chút lo lắng rồi nói:

— Chết thật, cháu có thù oán gì với ai đâu. Ayyy nhưng mà bây giờ phải làm sao hả Bác.

Ông Bác nheo mắt mà nói:

— Việc này phải nhờ người biết chút ít về tài phép mới giải quyết được.

Ngay lúc này trong đầu anh Trung lại nghĩ đến lão Tư Lam:

— Không lẽ lại đi nhờ cái lão thầy tà thất đức ấy hay sao.

Ông Bác kia liền lên tiếng cắt ngang:

— Cần gì đến lão ấy. Thầy Đồ Minh ấy, ông ta cũng biết chút ít về pháp. Cháu đi nhờ ông ấy xem sao.

Anh Trung à lên một tiếng:

— Ừ nhỉ, Để Cháu đi mời thầy tới xem sao. Các bác chờ cháu về rồi hẳn làm nhé.

Nói rồi Anh Trung đi thẳng đến gặp Thầy Minh, sau khi trình bày hết mọi việc cho Thầy nghe thì Thầy bảo:

— Cậu Trung về trước đi, tôi dặn dò các trò của tôi chút việc rồi tôi sang cậu.

Anh Trung cảm tạ mấy câu rồi quay người đi về. Thầy lên lớp dặn dò các trò mấy câu cũng tức tốc đi đến nhà anh Trung, vừa đi Thầy vừa suy nghĩ tới những chuyện cậu Trung kể, vẻ mặt rất trầm tư, từ việc tối qua hai vị cha nuôi về đánh đuổi âm binh, rồi bây giờ lại thêm chuyện âm binh phá nhà thì Thầy bắt đầu lo lắng, không biết rằng chuyện gì sẽ xảy đến với cái làng này đây, thêm nữa Thầy cũng đang nghĩ xem ai là kẻ đang đứng sau sự việc này.

Vừa đến nhà cậu Trung, thấy những cây trụ lớn đều bị xô ngã xuống đất, Thầy đi qua đi lại mà dò tìm xem có dấu chân dưới đất hay không, nhưng tuyệt nhiên không có một dấu vết nào để lại là do con người kéo ngã. Thầy thở dài một hơi rồi kêu anh Trung lại mà nói nhỏ:

— Việc này ắt hẳn có sự nhúng tay của thứ không sạch sẽ rồi, thôi thì bây giờ cậu nghe lời tôi, sau khi dựng trụ xong, cậu cho người đặt mỗi trụ một tô máu chó mực ở trên đầu cho tôi.

Anh Trung thắc mắc mà hỏi:

— Tại sao lại phải làm như vậy hả Thầy.

Thầy lại nói:

— Chó mực hay còn gọi là hắc cẩu, là thứ mà ma quỷ đều kinh sợ khi gặp phải, máu của nó cũng có uy lực trừ ma rất mạnh. Cậu muốn xem rõ công dụng của nó thì đêm nay sẽ rõ.




Please follow and like us:
Pin Share

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

CAPTCHA ImageChange Image

Contact Me on Zalo